KINH
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
"Nầy Thiện nam tử!
Kinh Đại Bát Niết Bàn vi diệu nầy
có thể diệt trừ tất cả ác nghiệp,
bốn tội trọng, năm tội vô gián của chúng sanh..."
Học Phật Pháp để thực hiểu và thực hành
Hán dịch: Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
"Nầy Thiện nam tử!
Kinh Đại Bát Niết Bàn vi diệu nầy
có thể diệt trừ tất cả ác nghiệp,
bốn tội trọng, năm tội vô gián của chúng sanh..."
[...] Lúc đó, chư Thiên, mọi người, A tu la v.v… khóc lóc buồn khổ than rằng:
Nay đức Như Lai đã thọ lần cúng dường cuối cùng của chúng ta, rồi đây đức Phật sẽ nhập Niết Bàn, chúng ta còn biết sẽ cúng dường ai. Nay chúng ta mất hẳn bậc Điều Ngự Vô Thượng, khác nào người mù không con mắt.
Đức Thế Tôn vì muốn an ủi tất cả đại chúng mà nói kệ rằng:
Đại chúng chớ buồn than, Pháp chư Phật phải vậy.
Phật nhập nơi Niết Bàn, Đã trải vô lượng kiếp.
Thường hưởng vui Vô thượng, Vĩnh viễn ở an ổn.
Mọi người lóng lòng nghe! Phật sẽ nói Niết Bàn.
Phật đã lìa ăn uống, Trọn không khổ đói khát,
Phật sẽ vì mọi người, Nói nguyện tùy thuận kia,
Khiến tất cả đại chúng, Đều được vui an ổn,
Nghe xong nên tu hành, Pháp thường trụ của Phật.
Giả sử quạ, chim cắt, Chung một cây làm ổ.
Như anh em thân yêu, Phật mới Niết Bàn hẳn.
Như Lai xem tất cả, Thương như La Hầu La,
Thường làm thầy chúng sanh, Sao lại Niết Bàn hẳn.
Giả sử rắn, chuột, sói, Đồng ở chung một hang,
Thương nhau như anh em, Phật mới Niết Bàn hẳn.
Như Lai xem tất cả, Thương như La Hầu La,
Thường làm cha chúng sanh, Thế nào Niết Bàn hẳn.
Giả sử hoa Thất diệp, Thơm như hoa Bàn sư.
Trái cây Ca lưu ca, Chuyển làm trái Trấn đầu.
Như Lai xem tất cả, Thương như La Hầu La,
Sao lại bỏ Từ bi, Vĩnh viễn nhập Niết Bàn.
Giả sử Nhứt xiển đề, Hiện thân thành Phật đạo,
Thọ hẳn vui đệ nhứt, Phật mới vào Niết Bàn.
Như Lai xem tất cả, Đều như La Hầu La,
Sao lại bỏ Từ bi, Vĩnh viễn nhập Niết Bàn.
Giả sử tất cả chúng, Đồng thời thành Phật đạo,
Xa lìa các lỗi lầm, Phật mới nhập Niết Bàn.
Như Lai xem tất cả, Đều như La Hầu La,
Sao lại bỏ Từ bi, Vĩnh viễn nhập Niết Bàn.
Giả sử nước đái muỗi, Ngập lụt cả Đại địa,
Ngập núi và trăm sông, Biển cả đều đầy tràn.
Nếu có việc như vậy, Phật mới vào Niết Bàn.
Lòng bi xem tất cả, Đều như La Hầu La,
Thường làm thầy chúng sanh, Sao lại Niết Bàn hẳn.
Vì thế nên mọi người, Phải ưa thích Chánh Pháp.
Chẳng nên sanh buồn rầu, Than thở mà khóc lóc.
Muốn có hạnh chơn chánh, Phải tu Phật thường trụ,
Nên xét Pháp như vậy, Còn mãi chẳng biến đổi.
Lại nên suy nghĩ rằng: Tam Bảo đều thường trụ,
Thời đặng lợi ích lớn, Như cây khô sanh trái.
Đây gọi là Tam Bảo, Tứ chúng phải khéo nghe,
Nghe rồi thêm vui mừng, Liền phát tâm Bồ đề.
Nếu biết được Tam Bảo, Thường trụ đồng chơn đế,
Đây thời là thệ nguyện, Tối thượng của chư Phật.
Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, có thể y cứ theo thệ nguyện tối thượng của Như Lai mà tự phát nguyện, nên biết người nầy không có ngu si, kham lãnh thọ sự cúng dường. Bởi nguyện lực nầy có công đức quả báo rất thù thắng nơi thế gian, như A la hán.
Nếu ai chẳng thể quan sát Tam Bảo thường trụ như vậy, kẻ nầy là Chiên đà la.
Nếu có người biết được Tam Bảo là thường trụ, là nhơn duyên pháp chơn thật, thời lìa khổ đặng an vui, không có gì nhiễu hại lưu nạn được người nầy.
Lúc đó, cả đại chúng trời, người, A tu la v.v… nghe lời Phật dạy, đều vui mừng hớn hở tâm tưởng đều nhu, dung nhan vui vẻ, oai đức thanh tịnh, khéo dứt ngũ cái, tâm không phân biệt cao hạ, biết Phật là thường trụ. [...]
Ca Diếp Bồ tát bạch Phật:
Thế Tôn! Như lời Phật khen Kinh Đại Bát Niết Bàn như chất đề hồ là vị thượng diệu, nếu có người uống đề hồ thời những chứng bịnh đều tiêu trừ, tất cả các vị thuốc đều vào trong chất đề hồ. Tôi nghe lời nầy trộm nghĩ rằng nếu có người chẳng nghe chẳng lãnh thọ được Kinh nầy, phải biết người đó rất là ngu si không có tâm lành.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi thật có thể kham chịu lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, biên chép Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy.
Biên chép, đọc tụng, thông thuộc, rồi vì người mà giảng rộng ý nghĩa đó.
Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh tham trước của cải, tôi sẽ bố thí của cải rồi sau đem Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy khuyên họ đọc.
Nếu có người sang quý, tôi trước dùng ái ngữ để được cảm tình, rồi sau lần lần sẽ đem Kinh Đại thừa Đại Bát Niết Bàn nầy khuyên họ đọc.
Nếu là kẻ thường dân, tôi sẽ dùng oai thế ép họ đọc tụng.
Nếu với người kiêu mạn tôi sẽ làm tôi tớ họ, tùy thuận ý của họ cho họ vui lòng, rồi sau sẽ đem Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy mà dẫn dắt họ.
Nếu có người hủy báng Kinh Đại thừa tôi sẽ dùng thế lực hàng phục họ, rồi sau khuyên họ đọc Kinh Đại Bát Niết Bàn.
Nếu có người ưa thích Kinh Đại thừa, tôi đích thân đến cung kính cúng dường tôn trọng tán thán họ.
Phật khen Ca Diếp Bồ tát: Lành thay! Lành thay! Ông thật đáng là người ưa thích Kinh điển Đại thừa, tham Kinh Đại thừa, thọ Kinh Đại thừa, say Kinh Đại thừa, kính tin, tôn trọng, cúng dường Kinh Đại thừa.
Nầy Thiện nam tử! Nay do tâm lành nầy, ông sẽ siêu việt vô lượng vô biên hằng hà sa Đại Bồ tát, đặng thành Vô thượng Chánh giác trước, chẳng bao lâu ông cũng sẽ vì đại chúng diễn nói tạng bí mật Đại Niết Bàn, Như Lai, Phật tánh, như Ta hôm nay. [...]
[...] Nầy Thiện nam tử! Kinh Đại Bát Niết Bàn vi diệu nầy có thể diệt trừ tất cả ác nghiệp, bốn tội trọng, năm tội vô gián của chúng sanh. Người chưa phát Bồ đề tâm nhơn Kinh nầy thời đặng phát Bồ đề tâm. Vì Kinh nầy là vua trong các thứ Kinh, như cây thuốc Dược vương là vua trong các thứ thuốc. Nếu có người tu tập cùng chẳng tu tập Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy, nếu nghe được danh tự của Kinh nầy, nghe rồi sanh lòng kính tin, thời đều trừ diệt được tất cả phiền não. [...]
[...] Người phạm bốn tội nặng và năm tội vô gián, lúc sắp chết nhớ đến Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy, dầu đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hay sanh trên trời, trong loài người, Kinh điển nầy cũng làm nhơn Bồ đề cho người nầy [...]
[...] Cũng vậy, nếu có chúng sanh phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián, Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy có thể làm cho tội tiêu diệt, an trụ nơi đạo Bồ đề. [...]
[...] Như trời mưa nhuần thấm làm cho tất cả hột giống nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái, mọi người nhờ đó được no đủ, khỏi đói khát. Cũng vậy, pháp tạng của Như Lai có thể diệt trừ tám thứ thống khổ. Kinh nầy ra đời, như những trái, hột đem sự no đủ an vui đến cho mọi người, tức là làm cho chúng sanh thấy Phật tánh. Như trong hội Pháp Hoa tám ngàn Thanh văn đặng thọ ký thành Phật. [...]
Nầy Thiện nam tử! Về thuở quá khứ thời kỳ không có Phật ra đời, lúc đó Ta làm Bà la môn tu hạnh Bồ tát, có thể thông đạt những kinh luận của tất cả ngoại đạo, tu hạnh tịch diệt, đầy đủ oai nghi, tâm Ta thanh tịnh chẳng bị các dục nhiễm ở ngoài phá hoại, dứt lửa sân hận, thọ trì pháp môn thường, lạc, ngã, tịnh.
Khắp nơi Ta tìm cầu Kinh điển Đại thừa, nhẫn đến vẫn chẳng được nghe danh tự Kinh Phương đẳng. Bấy giờ Ta ở núi Tuyết, núi nầy thanh tịnh có suối chảy ao tắm, rừng rậm cây thuốc, hoa thơm nở khắp núi, chim thú không thể tính đếm, nhiều thứ trái ngon, lại có vô lượng ngó sen, củ ngọt củ thơm. Ta ở một mình trong núi chỉ ăn các thứ trái, ăn xong ngồi thiền chuyên tâm quán tưởng.
Ta tu khổ hạnh như vậy trải qua vô lượng năm, cũng chẳng được nghe có Phật ra đời cùng tên Kinh Đại thừa. Thích Đề Hoàn Nhơn và chư Thiên thấy Ta bền tu khổ hạnh như vậy lòng họ kinh sợ bảo nhau rằng:
Chúng ta nên xem coi Trong núi Tuyết thanh tịnh, Người ly dục tịch tịnh Vua công đức trang nghiêm, Đã lìa tham sân mạn Dứt hẳn lòng ngu si, Miệng chưa từng nói ra, Những lời thô ác thảy.
Có một vị Thiên tử tên là Hoan Hỷ lại nói kệ rằng:
Người ly dục như vậy, Thanh tịnh siêng tinh tấn, Toan chẳng cầu Đế Thích, Và làm chư Thiên ư! Nếu là hạng ngoại đạo, Họ tu hành khổ hạnh, Phần nhiều đều mong cầu, Tòa ngồi của Đế Thích.
Có một vị Tiên Thiên tử lại vì Đế Thích mà nói kệ rằng:
Thiên chủ Kiều Thi Ca, Chẳng nên sanh lòng lo, Ngoại đạo tu khổ hạnh, Hà tất cầu Đế Thích.
Thiên tử nầy lại thưa với Đế Thích:
Bậc Đại sĩ trong đời vì chúng sanh nên chẳng tham luyến thân mình mà tu vô lượng khổ hạnh để làm lợi ích cho chúng sanh. Hạng người như vậy thấy rõ những lỗi lầm trong dòng sanh tử, dầu của báu đầy cả mặt đất, Đại sĩ nầy cũng chẳng tham muốn như thấy mũi giải. Bậc Đại sĩ nầy rời bỏ của cải, vợ con, đầu, mắt, tủy, não tay, chân, da thịt, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, cũng chẳng mong cầu sanh lên cõi trời, chỉ mong muốn làm cho tất cả chúng sanh được an vui. Như chỗ tôi hiểu bậc Đại sĩ như vậy lòng thanh tịnh không ô nhiễm, đã dứt hết phiền não chỉ muốn cầu quả Vô thượng Bồ đề.
Thích Đề Hoàn Nhơn bảo rằng:
Theo như lời ông nói thời người ấy vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh trong đời. Nầy Đại Tiên! Nếu trong đời nầy có Phật dứt trừ được tất cả rắn độc phiền não của chư Thiên, loài người và A tu la. Nếu các chúng sanh ở trong bóng mát của Phật thời tất cả những độc phiền não đều tiêu diệt.
Nầy Đại Tiên! Bậc Đại sĩ nầy nếu trong đời vị lai sẽ thành Phật, thời chúng ta sẽ được dứt trừ vô lượng phiền não. Việc nầy thật là khó tin, vì vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, bị chút ít duyên liền thối thất Bồ đề tâm, như bóng trăng trong nước, nước động thời trăng động. Lại như họa tượng, khó thành mà dễ hư. Cũng vậy, tâm Bồ đề khó phát mà dễ thối thất.
Nầy Đại Tiên! Như có nhiều người mặc giáp cầm gậy muốn đi dẹp giặc, lúc ra đến chiến trận lòng sợ sệt thời bèn chạy lui. Cũng vậy vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề tự trang nghiêm bền chắc, lúc thấy lỗi sanh tử lòng sợ sệt bèn thối thất.
Nầy Đại Tiên! Ta từng thấy vô lượng chúng sanh sau khi phát tâm Bồ đề đều bị thối chuyển. Vì thế nên nay dầu thấy người nầy tu khổ hạnh tịch tịnh không phiền não nhưng ta chưa tin được. Nay ta sẽ đến thử xem coi người nầy thật có thể gánh vác nổi Vô thượng Bồ đề chăng?
Nầy Đại Tiên! Như xe có hai bánh thời có công dụng chuyên chở, như chim có hai cánh mới có thể bay đi. Người tu khổ hạnh nầy, dầu thấy là giữ gìn giới cấm, nhưng chưa biết có trí sâu chăng. Nếu có trí sâu thời có thể gánh nổi Vô thượng Bồ đề.
Nầy Đại Tiên! Như cá mẹ đẻ ra bầy cá con, nhưng số cá được lớn khôn rất ít. Như cây am la nhiều bông mà ít trái. Chúng sanh phát tâm Bồ đề đông vô lượng nhưng ít người được thành tựu.
Nầy Đại Tiên! Ông nên cùng ta đồng qua thử đó. Như vàng ròng sau khi thử đủ ba cách mới biết là vàng thật, là đốt, đập và mài. Nay chúng ta cũng thử người tu khổ hạnh nầy.
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhơn tự biến thân mình làm quỷ La sát dung mạo đáng sợ, bay xuống núi Tuyết đến gần người tu khổ hạnh, cất tiếng thanh nhã tuyên nói nửa bài kệ của Phật quá khứ:
Các hành vô thường
Là pháp sanh diệt.
Quỷ La sát nói nửa kệ xong liếc mắt tìm ngó bốn phía. Người tu khổ hạnh nghe hai câu kệ ấy lòng rất vui mừng, như người khách buôn ban đêm đến đường hiểm lạc mất đồng bạn, kinh sợ tìm kiếm bỗng gặp được đồng bạn, lòng rất vui mừng. Cũng như người bịnh lâu chưa gặp được lương y, về sau bỗng gặp được. Như người trôi nổi ngoài biển khơi bỗng gặp được thuyền bè. Như người quá khát gặp được nước mát trong. Như người bị oán địch rượt mà chạy thoát được. Như người bi trói nhốt đã lâu bỗng đặng thả. Cũng như nhà nông trời nắng hạn mà gặp mưa. Như người đi xa trở về đến nhà, cả nhà đều vui mừng.
Nầy Thiện nam tử! Lúc nghe được nửa bài kệ ấy, lòng người khổ hạnh vui mừng cũng như vậy. Liền đứng dậy lấy tay đỡ tóc lên ngó tìm bốn phía nói rằng: Chẳng biết ai vừa nói hai câu kệ? Ngó mãi không thấy người nào khác chỉ thấy quỷ La sát bèn nói rằng: Ai khai môn giải thoát như vậy? Ai có thể thuật lời của Phật như vậy? Ai có thể ở trong giấc ngủ sanh tử mà có thể riêng được giác ngộ xướng lên lời đó vậy? Ai có thể ở chốn nầy đem đạo vị Vô thượng chỉ dạy cho chúng sanh đang đói khát trong vòng sanh tử? Ai có thể làm thuyền lớn cứu vớt vô lượng chúng sanh đang nổi chìm trong biển sanh tử? Những chúng sanh nầy thường mang bịnh nặng phiền não, ai có thể làm lương y nói hai câu kệ ấy khai ngộ tâm của tôi. Như mặt trăng nửa như hoa sen hé nở.
Người khổ hạnh lúc đó không thấy có ai khác chỉ thấy quỷ La sát, nghĩ rằng có lẽ quỷ nầy nói hai câu kệ ấy chăng? Rồi lại nghĩ rằng quỷ nầy hình dung hung dữ đáng sợ, phàm người đặng nghe những câu kệ ấy thời tất cả sự sợ sệt xấu xa liền tiêu trừ, đâu có lẽ người hình mạo xấu xa nầy mà có thể nói lời kệ ấy. Như trong lửa mọc được hoa sen. Trong ánh nắng mặt trời chẳng sanh được nước mát. Rồi lại tự trách ta thật là vô trí hoặc quỷ nầy đặng gặp chư Phật quá khứ, nên được nghe nửa bài kệ ấy, nay ta nên hỏi ý nghĩa của lời ấy. Suy nghĩ xong liền đến trước quỷ La sát nói rằng: Lành thay! Lành thay! Đại sĩ! Ngài ở đâu mà học được nửa bài kệ của Phật quá khứ như vậy?
Quỷ La sát liền đáp rằng: Nầy Bà la môn! Ông chẳng nên hỏi ta về việc ấy. Vì ta đã nhiều ngày không được ăn đói khát khổ não tâm ý mê loạn. Ta tìm cầu khắp nơi vẫn chẳng được thức ăn. Vì thế nên ta nói những lời như vậy.
Người khổ hạnh lại nói với quỷ La sát: Nếu Đại sĩ có thể vì tôi nói trọn bài kệ, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử Ngài. Kệ của Đại sĩ vừa nói lời chẳng đủ, nghĩa chẳng trọn, sao Đại sĩ chẳng nói cho trọn? Luận về tài thí thời có cạn hết, còn pháp thí thời chẳng thể cùng tận, nhiều sự lợi ích. Tôi nghe nửa bài kệ ấy sanh lòng kinh nghi. Trông mong Ngài vì tôi mà nói cho trọn, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử Ngài.
Quỷ La sát nói: Ông tham thái quá chỉ biết tự thương thân mình mà chẳng nghĩ đến người. Ta đương đói khổ thật không thể nói đặng.
Người khổ hạnh hỏi: Thức ăn của Ngài là vật gì?
Quỷ nói: Ông đừng hỏi, nếu ta nói ra thời mọi người phải kinh sợ.
Người khổ hạnh nói: Giữa đây chỉ có mình tôi không có người nào khác. Tôi không sợ, Ngài cứ nói.
Quỷ nói: Tôi chỉ ăn thịt người tươi nóng, chỉ uống máu nóng của người. Vì ta phước mỏng nên chỉ ăn những thứ đó. Ta tìm khắp các nơi mà chẳng đặng. Trong đời dầu có người đông nhiều, nhưng mỗi người đều có phước đức, lại được chư Thiên Thần thủ hộ, ta không đủ sức bắt ăn được.
Người khổ hạnh nói: Ngài cứ nói đủ bài kệ ấy, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân nầy dâng cho Ngài dùng. Thưa Đại sĩ nếu lúc tôi chết thân nầy sẽ không dùng vào việc gì được, sẽ bị cọp, sói, chim hiêu, kên kên ăn mổ, không được một mảy phước đức. Nay tôi vì cầu Vô thượng Bồ đề xả thí thân vô thường chẳng bền nầy, để đổi lấy thân thường trụ bền chắc.
Quỷ nói: Ai tin được lời của ông, chỉ vì có tám chữ mà thí bỏ thân đáng mến đáng tiếc.
Người khổ hạnh nói: Như có người đem đồ sành bố thí cho người khác mà đặng đồ bằng thất bửu. Cũng vậy, tôi xả thí thân vô thường nầy để đặng thân kim cang. Ngài nói ai tin được lời tôi? Các vị Đại Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn và Tứ Thiên Vương có thể chứng minh lời tôi. Lại có các vị Bồ tát tu hành Đại thừa đủ lục độ, lợi ích vô lượng chúng sanh, có thiên nhãn cũng chứng biết được lời của tôi. Thập phương chư Phật cũng chứng biết cho tôi vì tám chữ mà xả thí thân mạng.
Quỷ nói: Nếu ông có thể xả thí thân mạng như vậy, thời nên lóng nghe kỹ tôi sẽ vì ông nói nửa bài kệ sau.
Người khổ hạnh nghe quỷ hứa nói vui mừng hớn hở, liền cởi tấm da nai đang mặc trên thân trải tòa rồi mời quỷ: Bạch Hòa thượng xin thỉnh Ngài lên tòa nầy.
Quỷ ngồi xong người khổ hạnh quỳ dài, vòng tay thưa rằng: Mong Hòa thượng vì tôi mà nói nửa bài kệ còn lại cho được đầy đủ.
Quỷ La sát liền tuyên rằng:
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Quỷ La sát nói hai câu kệ rồi bảo rằng: Nầy Đại Bồ tát nay ông đã nghe đủ cả nghĩa bài kệ, lòng mong muốn của ông đã đầy đủ, nếu ông muốn lợi ích chúng sanh giờ đây nên thí thân cho ta.
Người khổ hạnh suy nghĩ kỹ những nghĩa trong bài kệ rồi biên chép lên trên đá, trên vách, trên cây, bên đường đi. Tự cột áo xiêm sợ sau khi chết thân thể lõa lồ rồi leo lên cây cao. Thọ Thần bảo người khổ hạnh: Lành thay! Nay ông muốn làm việc gì?
Người khổ hạnh đáp: Tôi muốn thí xả thân nầy để trả giá bài kệ.
Thọ Thần nói: Bài kệ như vậy có những lợi ích gì?
Người khổ hạnh đáp: Những câu kệ ấy là lời thuyết pháp của Phật ba đời, trong ấy chỉ dạy đạo pháp chơn Không. Tôi vì pháp nầy muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà thí xả thân nầy, chẳng phải vì lợi danh, chẳng cầu Chuyển Luân Thánh Vương, Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương, chẳng cầu quả vui của người của trời.
Lúc sắp sửa xả thân, người khổ hạnh nói rằng: Nguyện cho tất cả người tham lam, bỏn sẻn đều thấy tôi xả thân. Những người bố thí chút ít sanh lòng cống cao cũng đặng thấy tôi vì một bài kệ mà xả thân mạng.
Nói xong, người khổ hạnh buông mình từ trên cây rơi xuống. Lúc thân chưa tới đất, trong hư không vang ra các thứ tiếng thấu đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Quỷ La sát trở lại hình Thiên Đế hứng lấy thân người khổ hạnh để nhẹ nhàng xuống đất.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương cùng chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh mà khen rằng: Lành thay! Lành thay! Thật là Bồ tát có thể lợi ích nhiều cho vô lượng chúng sanh, muốn thắp đuốc pháp lên giữa đêm tối vô minh. Vì tôi mến tiếc pháp lớn của Như Lai nên cố nhiễu não Ngài. Ngưỡng mong Ngài cho tôi sám hối tội lỗi. Thuở vị lai Ngài quyết định thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi được thành Phật, mong Ngài tế độ chúng tôi.
Nói xong, Thích Đề Hoàn Nhơn và chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh, cáo từ, bỗng nhiên ẩn mất. [...]
[...] Nầy Ca Diếp! Nay ông phải ghi nhớ như vậy. Nếu có chúng sanh trọn nên đầy đủ vô lượng công đức, mới có thể tin Kinh điển Đại thừa nầy, tin rồi thọ trì. Những chúng sanh nào ưa thích pháp Đại thừa, nên vì họ mà giảng giải Kinh nầy. Họ được nghe Kinh nầy, thời bao nhiêu nghiệp ác đã tạo ra từ vô lượng kiếp trước thảy đều tiêu trừ.
Nếu kẻ nào không tin Kinh điển nầy, thời hiện thân sẽ bị vô lượng bịnh khổ não hại, phần nhiều bị người trách mắng, sau khi chết, sẽ thọ thân hình xấu xí, nghèo thiếu, bị người khinh tiện, đời đời sanh trong nhà bần cùng, hạ tiện, tà kiến, thường bị tai nạn đao binh, hình pháp, giặc cướp, oán thù làm hại, không được gặp gỡ bạn lành, hằng ngày đói khát, không chịu tin nghe lời chơn chánh, lời hay phải. Những kẻ ấy không bao giờ được đến chỗ lành ở cõi trời, cõi người, như chim gãy cánh không bay cao được.
Nếu người nào kính tin Kinh điển nầy, thời dầu đã mang thân hình thô kệch xấu xa, do công đức của Kinh, sẽ được xinh tốt, sắc lực oai nhan ngày ngày thêm hơn, thường được trời, người mến ưa. Người nầy có nói ra lời chi, ai nghe đến đều kính tin cả.
Trong hàng Thanh văn đệ tử của Như Lai, nếu vị nào muốn thi hành việc hy hữu nhứt, thời nên tuyên rộng Kinh điển Đại thừa như đây.
Nầy Ca Diếp! Như sương mù kia chỉ có thể tồn tại đến lúc mặt trời mọc. Khi mặt trời đã mọc, sương mù sẽ tiêu tan. Bao nhiêu nghiệp ác của chúng sanh, thế lực nó sẽ phải tiêu diệt khi được thấy mặt trời Đại thừa Đại Bát Niết Bàn nầy.
Nầy Ca Diếp! Như có người mới xuất gia cạo tóc, đắp ca sa vẫn chưa thọ mười giới Sa di, có tín thí trưởng giả đến thỉnh chúng Tăng, người ấy cùng đại chúng đồng đi thọ trai, dầu chưa thọ giới mà đã vào số chư Tăng. Cũng vậy, nếu có chúng sanh nào phát tâm mới học Kinh Đại thừa Đại Bát Niết Bàn, biên chép, đọc tụng, người nầy dầu chưa đầy đủ công đức bằng bậc Thập địa Bồ tát, nhưng đã được dự trong số các bậc Thập trụ Bồ tát.
Nếu có chúng sanh nào hoặc là đệ tử Phật, hoặc không phải đệ tử Phật, hoặc vì tham vì sợ, hoặc vì lợi dưỡng mà nghe học thọ trì Kinh Đại thừa Đại Bát Niết Bàn nầy nhẫn đến một bài kệ, kính tin không hủy báng, phải biết người nầy thời là đã được gần Vô thượng Bồ đề. [...]
[...] Tất cả nam nữ nếu đủ bốn pháp thời gọi là trượng phu:
Một là gần thiện tri thức,
hai là có thể nghe pháp,
ba là tư duy nghĩa,
bốn là đúng như pháp tu hành.
Nếu nam nữ nào không có bốn pháp nầy thời chẳng được gọi là trượng phu. [...]
[...] Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ tát không ai giáo hóa mà có thể tự phát tâm Bồ đề, đã phát tâm rồi tinh tấn siêng tu. Giả sử lửa lớn đốt cháy thân thể, trọn chẳng vì cầu cứu mà bỏ tâm niệm pháp.
Vì Đại Bồ tát thường tự suy nghĩ: Tôi trong vô lượng vô số kiếp hoặc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong loài người, trên trời, bị các thứ lửa kiết sử đốt cháy, chưa từng đặng một pháp quyết định, pháp quyết định là Vô thượng Bồ đề. Nay tôi vì Vô thượng Bồ đề trọn chẳng tiếc thân mạng, dầu đến phải nát thân như vi trần, tôi trọn chẳng buông bỏ hạnh tinh tấn siêng tu.
Vì tâm tinh tấn bèn là nhơn Vô thượng Bồ đề. Nầy Thiện nam tử! Bồ tát nầy lúc chưa thấy Vô thượng Bồ đề đã có thể chẳng tiếc thân mạng như vậy, huống là đã thấy. Do đây nên Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lại Đại Bồ tát thấy sanh tử có vô lượng tội khổ, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác biết được. Dầu biết sanh tử có vô lượng tội khổ, nhưng vì chúng sanh ở trong đó chịu khổ mà chẳng sanh tâm nhàm lìa. Do đây nên gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Đại Bồ tát vì chúng sanh nên dầu ở trong địa ngục chịu khổ nhưng vui như đệ Tam thiền. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Ví như nhà trưởng giả phát hỏa, trưởng giả xem thấy liền bỏ nhà chạy ra. Các con của trưởng giả ở sau chưa thoát khỏi nạn lửa. Trưởng giả vì các con nên trở vào nhà để cứu, chẳng đoái đến hoạn nạn nguy hiểm. Cũng vậy, Đại Bồ tát dầu biết sanh tử nhiều tội khổ, nhưng vì cứu chúng sanh nên ở trong sanh tử mà chẳng nhàm. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy Thiện nam tử! Vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề, thấy trong sanh tử nhiều tội khổ liền thối tâm Bồ đề, hoặc làm Thanh văn hoặc làm Duyên giác. Nếu Bồ tát được nghe Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy thời trọn chẳng thối thất tâm Bồ đề. Bồ tát nầy dầu chưa đến bậc bất động địa, nhưng tâm bền chắc không thối thất. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. [...]
[...] Do giới thanh tịnh nên thân thể dịu dàng, miệng không nói lời thô ác lỗi lầm. Lúc bấy giờ,
Bồ tát hoặc thấy hoặc nghe, hoặc ngửi, hoặc nếm, hoặc xúc chạm, hoặc biết, đều không có các sự ác.
Vì không ác nên tâm đặng an ổn.
Vì an ổn nên đặng chánh định.
Vì đặng chánh định nên thấy biết chơn thật.
Vì thấy biết chơn thật nên nhàm lìa sanh tử.
Vì nhàm lìa sanh tử nên đặng giải thoát.
Vì giải thoát nên thấy Phật tánh.
Vì thấy Phật tánh nên đặng Niết Bàn.
Đây gọi là Bồ tát trì tịnh giới, chẳng phải giới cấm thế gian.
Vì Đại Bồ tát thọ trì tịnh giới có 5 pháp tá trợ: một là tín, hai là tàm, ba là quý, bốn là thiện tri thức, năm là tôn kính giới do đã lìa ngũ cái, chỗ thấy thanh tịnh vì đã lìa năm ác kiến.
Tâm không nghi hoặc vì đã lìa năm thứ nghi: một là nghi Phật, hai là nghi Pháp, ba là nghi Tăng, bốn là nghi giới, năm là nghi chẳng phóng dật.
Bồ tát bèn đặng ngũ căn: Tín, niệm, tinh tấn, định và huệ.
Vì đặng ngũ căn nên đặng năm thứ Niết Bàn: Sắc giải thoát nhẫn đến thức giải thoát.
Đây gọi Bồ tát trì tịnh giới thanh tịnh chẳng phải thế gian vậy. [...]
[...] Nầy Thiện nam tử! Thế nào là bố thí mà chẳng phải ba la mật? Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là bố thí chẳng phải ba la mật. Nếu không người xin tâm tự thí xả, thời gọi là Đàn ba la mật. Nếu bố thí có thời gian thời gọi là bố thí chẳng phải ba la mật. Nếu thường thực hành bố thí thời gọi là Đàn ba la mật, nếu bố thí rồi trở lại sanh lòng hối hận đây gọi là bố thí chẳng phải ba la mật. Thí rồi chẳng ăn năn thời gọi là Đàn ba la mật.
Đại Bồ tát đối với của cải có 4 quan niệm lo sợ: Một là vua quan tịch thâu, hai là trộm cướp, ba là nước lụt, bốn là lửa cháy, do đó nên vui vẻ đem bố thí, đây gọi là Đàn ba la mật, nếu mong được báo đền mà bố thí thời chẳng phải ba la mật. Bố thí chẳng mong báo đền thời gọi là Đàn ba la mật. Nếu vì kinh sợ, vì tiếng tăm lợi lộc, vì gia pháp tương truyền, vì cầu vui cõi trời, vì kiêu mạn, vì hơn người, vì quen thân, vì cầu báo đền thời như là buôn bán đổi chác. Như người trồng cây để được bóng mát, được bông trái, hoặc để được cây gỗ. Nếu người tu hành mà bố thí như vậy thời gọi là bố thí chẳng phải ba la mật.
Đại Bồ tát tu hành Phương đẳng Đại Niết Bàn, chẳng thấy người bố thí cũng như chẳng thấy kẻ lãnh thọ và của cải, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy phước điền hay chẳng phải phước điền, chẳng thấy nhơn duyên, quả báo, chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hay ít, tịnh hay bất tịnh, chẳng khinh người lãnh thọ cũng như chẳng khinh thân mình hay của cải, chẳng để ý người ngó thấy hay không ngó thấy, chẳng chấp mình cùng người chỉ vì pháp thường trụ Phương đẳng Đại Niết Bàn mà thực hành bố thí chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh mà thực hành bố thí, vì dứt tất cả phiền não cho chúng sanh mà thực hành bố thí, chỉ vì chúng sanh nên chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải, mà thực hành bố thí. [...]
[...] Nếu hàng đệ tử của Ta thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn mà có phá giới. Bị người quở trách khinh tiện hủy nhục và nói rằng: “Nếu tạng bí mật của Phật, Kinh Đại Bát Niết Bàn có oai lực, sao lại làm cho người hủy phá giới cấm. Nếu người thọ trì Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy hủy phá giới cấm, nên biết Kinh nầy là không có oai lực, nếu không oai lực dầu có đọc tụng cũng không lợi ích”. Do vì khinh hủy Kinh Đại Bát Niết Bàn nên làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh nầy mà hủy phá giới cấm là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma chẳng phải đệ tử của Ta. Người như vậy Ta cũng chẳng cho thọ trì Kinh nầy. Thà khiến họ chẳng thọ, chẳng trì, chẳng tu, chớ chẳng để họ hủy phá giới cấm mà thọ trì tu tập.
Nầy Thiện nam tử! Nếu đệ tử Ta thọ trì, đọc tụng, thơ tả, diễn thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn phải chánh thân tâm cẩn thận chớ cợt đùa, cử động thô tháo thân không thô tháo, tâm không cợt đùa. Tâm cầu pháp có thời gọi là cợt đùa, thân tạo các nghiệp gọi là thô tháo. Nếu đệ tử Ta cầu pháp có, tạo các nghiệp, thời không nên thọ trì Kinh điển Đại thừa Đại Bát Niết Bàn nầy. Nếu người như vậy mà thọ trì Kinh nầy, sẽ làm cho nhiều người khinh chê mà nói rằng nếu Kinh Đại Bát Niết Bàn, tạng bí mật của Phật có oai lực, sao lại làm cho người cầu pháp có, gây tạo các nghiệp. Nếu người trì Kinh nầy cầu pháp có, gây tạo các nghiệp do đó biết rằng Kinh nầy không có oai lực, không oai lực nên thọ trì cũng không lợi ích gì. Do khinh hủy Kinh Đại Bát Niết Bàn lại làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh nầy nếu cầu pháp có, gây tạo các nghiệp, họ là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma không phải đệ tử Ta.
Nầy Thiện nam tử! Nếu hàng đệ tử của Ta thọ trì, đọc tụng, thơ tả, diễn thuyết Kinh Đại Bát Niết Bàn nầy, không nên thuyết pháp phi thời, thuyết pháp phi xứ, không thỉnh mà thuyết pháp, khinh tâm mà thuyết pháp, chỗ nào cũng thuyết pháp, tự khen mình mà thuyết pháp, khinh người khác mà thuyết pháp, diệt Phật pháp mà thuyết pháp, hưng thạnh pháp thế gian mà thuyết pháp. Nếu đệ tử của Ta thọ trì Kinh nầy mà thuyết pháp phi thời cho đến thuyết pháp để hưng thạnh pháp thế gian, mọi người sẽ khinh chê họ. Vì khinh chê Kinh Đại Bát Niết Bàn nên làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh nầy mà như vậy thời là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử của Ta.
Nầy Thiện nam tử! Nếu người thọ trì Kinh nầy, muốn giảng thuyết Đại Bát Niết Bàn, muốn giảng thuyết Phật tánh, muốn giảng thuyết tạng bí mật của Như Lai, muốn giảng thuyết Đại thừa, muốn giảng thuyết Kinh Phương Đẳng, muốn giảng thuyết Thanh văn thừa, Bích chi Phật thừa, muốn giảng thuyết giải thoát, thấy Phật tánh thời trước phải thanh tịnh thân của mình. Vì thân thanh tịnh thời người không quở trách. Vì không quở trách nên làm cho vô lượng chúng sanh có lòng tin thanh tịnh đối với Kinh Đại Bát Niết Bàn. Vì có lòng tin nên càng kính Kinh nầy, nếu được nghe một kệ, một câu, một chữ và người thuyết pháp, thời phát đặng tâm Vô thượng Bồ đề. Nên biết người nầy thật là thiện tri thức của chúng sanh, là đệ tử của Phật. Đây gọi là Bồ tát chẳng phải thế gian. [...]
[...] Phật nói:
Nầy Thiện nam tử! Nếu có người trì giới chỉ vì muốn tự lợi hưởng thọ sự vui cõi trời, cõi người, mà chẳng vì độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng vì ủng hộ chánh pháp vô thượng, chỉ vì lợi dưỡng, sợ ba ác đạo, vì sống lâu, sắc đẹp, sức mạnh, an ổn, vô ngại biện, vì sợ luật pháp của vua, vì sợ tiếng xấu, vì sự nghiệp thế gian, vì những việc như trên mà hộ trì giới luật thời chẳng được gọi là tu tập giới luật.
Thế nào gọi là chơn thật tu tập giới luật? Lúc trì giới nếu vì độ thoát tất cả chúng sanh, vì hộ trì chánh pháp để độ người chưa được độ, khai ngộ người chưa tỏ ngộ, quy y người chưa quy y, người chưa nhập Niết Bàn làm cho được nhập, lúc tu tập như vậy chẳng thấy giới, chẳng thấy giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy quả báo, chẳng tìm xem hủy phạm. Nếu có thể được như vậy thời mới gọi là tu tập giới luật.
Thế nào gọi là tu tập chánh định? Lúc tu tam muội, vì tự độ, vì lợi dưỡng, mà chẳng vì chúng sanh, chẳng vì hộ pháp, vì thấy những lỗi tham dục ăn uống, vì thấy những căn nam nữ chín lỗ bất tịnh, vì tranh đấu cãi cọ đánh đâm, giết hại lẫn nhau. Nếu vì những việc nầy mà tu tam muội, đây thời chẳng gọi là tu tập tam muội.
Thế nào gọi là chơn thật tu tam muội? Nếu tu tập tam muội là vì chúng sanh, đối với chúng sanh có tâm bình đẳng, vì làm cho chúng sanh được pháp bất thối, được Thánh tâm, được Đại thừa, vì muốn hộ trì pháp vô thượng, khiến cho chúng sanh chẳng thối tâm Bồ đề, làm cho chúng sanh được Thủ Lăng Nghiêm tam muội, được Kim cang tam muội, được đà la ni, được tứ vô ngại, được thấy Phật tánh. Lúc thực hành chẳng thấy tam muội, chẳng thấy tướng tam muội, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Nếu có thể như vậy thời gọi là tu tập chánh định.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có người tu hành suy nghĩ như vầy: Nếu tôi tu tập trí huệ nầy thời được thoát khỏi ba ác đạo? Ai có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh? Ai có thể ở trong đường sanh tử mà độ mọi người? Phật xuất hiện ra đời khó gặp như hoa ưu đàm, nay tôi có thể dứt phiền não kiết sử được quả giải thoát, nên tôi phải siêng năng tu hành trí huệ, để sớm dứt phiền não mau được giải thoát. Tu tập như vậy chẳng được gọi là tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là chơn thật tu tập trí huệ? Người trí nếu quan sát sự khổ sanh lão bịnh tử, tất cả chúng sanh bị vô minh che đậy, chẳng biết tu tập đạo vô thượng. Nguyện thân tôi nhận lấy khổ não thay thế chúng sanh. Bao nhiêu những sự bần cùng, hạ tiện, phá giới, những nghiệp tham, sân, si của chúng sanh, nguyện tất cả đều đến nhóm chất trên thân tôi. Nguyện cho chúng sanh chẳng tham đắm, chẳng bị danh sắc trói buộc mau thoát khỏi sanh tử, chỉ để một thân tôi ở nơi sanh tử chẳng mỏi nhàm. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được Vô thượng Bồ đề. Lúc tu tập như vậy chẳng thấy trí huệ, chẳng thấy tướng trí huệ, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo, đây thời gọi là tu tập trí huệ. [...]
[...] Phật nói: Nầy Đại vương! Nay Phật sẽ vì nhà vua mà nói pháp yếu. Nhà vua nên hết lòng lóng nghe!
Hạng phàm phu cần phải chuyên tâm quán sát nơi thân có hai mươi việc:
Một là trong thân của ta đây không có công đức vô lậu,
hai là không căn lành,
ba là chưa đặng điều thuận,
bốn là sa rớt hầm sâu không chỗ nào chẳng đáng sợ,
năm là dùng phương tiện gì để thấy Phật tánh,
sáu là tu thiền định thế nào để được thấy Phật tánh,
bảy là sanh tử khổ luôn không có thường, không ngã, không tịnh,
tám là khó thoát khỏi tám nạn,
chín là thường bị oan gia theo dõi,
mười là không có một pháp gì ngăn được những hữu lậu,
mười một là chưa thoát khỏi ba đường ác,
mười hai là đầy đủ những ác kiến,
mười ba là chưa qua khỏi bờ ngũ nghịch,
mười bốn là chưa qua khỏi dòng sanh tử không bờ,
mười lăm là chẳng tạo nghiệp lành chẳng được quả báo lành,
mười sáu là không có ta làm mà người khác chịu quả,
mười bảy là chẳng gây nhơn vui thời trọn không quả vui,
mười tám là nếu đã tạo nghiệp thời quả báo trọn chẳng mất,
mười chín là do vô minh mà sanh cũng do vô minh mà chết,
hai mươi là quá khứ vị lai và hiện tại thường buông lung phóng dật.
Nầy Đại vương! Người phàm phu nên quán sát thân nầy có 20 điều như vậy. Do quán sát nầy nên chẳng ưa thích sanh tử. Nếu chẳng ưa thích sanh tử thời được chỉ quán.
Theo thứ tự quán tướng sanh, trụ, diệt nơi tâm. Quán định, huệ, tinh tấn, trì giới cũng như vậy.
Quán tướng sanh trụ diệt rồi biết rõ tâm tướng nhẫn đến giới tướng thời trọn chẳng làm ác, không có sợ chết cũng không sợ ba ác đạo. Nếu chẳng chuyên tâm quán sát 20 điều như vậy thời tâm buông lung phóng dật không việc ác nào chẳng làm. [...]
[...] Thế nào lại gọi là tâm bất thối? Có người nghe rằng đức Phật có thể độ chúng sanh khỏi sanh, lão, bịnh, tử. Là Đấng chẳng học với thầy; tự tu tập được Vô thượng Bồ đề. Nếu đạo Bồ đề là quả có thể được, tôi cũng tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người nầy phát tâm Bồ đề. Bao nhiêu công đức tu tập không luận nhiều ít đều hồi hướng cả về Vô thượng Bồ đề.
Người nầy thệ nguyện thường được gặp Phật cùng đệ tử Phật, thường được nghe pháp Đại thừa thâm diệu, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân, cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnh khổ nạn cũng quyết không mất tâm Bồ đề nầy. Lại nguyện rằng: Mong chư Phật, chư Bồ tát luôn có lòng hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếu có chúng sanh nào chặt, chém, đánh đập, giết hại tôi, đối với kẻ nầy, tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn công hạnh Bồ đề. Nếu không có họ, tôi làm sao được quả Vô thượng Bồ đề.
Lại nguyện rằng: Đời đời tôi được khỏi những thân nữ, thân hai căn, không căn; không bị làm nô lệ, không gặp chủ hung ác, không thuộc dưới quyền vua chúa ác; chẳng sanh vào nước ác. Nếu được thân xinh tốt, dòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôi không có lòng kiêu mạn.
Nguyện tôi thường được nghe mười hai bộ Kinh và thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giảng thuyết cho chúng sanh, nguyện cho thính giả đều kính tin không nghi, chẳng sanh ác tâm đối với tôi. Nguyện cho tôi thà nghe pháp ít mà hiểu được nhiều nghĩa vị, chẳng muốn nghe nhiều mà chẳng rõ nghĩa lý.
Nguyện là thầy của tâm mình, chớ chẳng bị tâm sai sử. Thân khẩu ý, ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác. Có thể làm cho tất cả chúng sanh được an lạc. Giới hạnh nơi thân cũng như trí huệ nơi tâm đều vững chắc như núi không bị lay động.
Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượng nên chẳng lẫn tiếc thân mạng và tài sản. Chẳng đem vật bất tịnh làm phước nghiệp. Tâm không tà vạy. Tự sống với chánh mạng. Nếu thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơn thọ. Biết rành những sự nghiệp thế gian; hiểu rành ngôn ngữ của các địa phương, của mọi loài chúng sanh.
Đọc tụng biên chép mười hai bộ Kinh không hề nhàm mỏi, biếng lười. Nếu có chúng sanh không thích nghe Kinh, thời tôi tìm phương tiện tiếp dẫn cho họ ưa nghe Kinh.
Tôi thường nói lời diệu hòa, miệng không tuyên điều xấu ác. Chúng bất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp. Người lo sợ, tôi làm cho họ được vững lòng. Thời kỳ đói kém, tôi làm cho mọi người được no đủ. Đời tật bịnh thời tôi sẽ làm vị đại lương y tự có đủ tài bửu cũng như thuốc men, làm cho người bịnh đều được lành mạnh. Kiếp binh đao, tôi sẽ có thế lực trừ dứt hết sự tương tàn tương hại. Tôi sẽ làm cho chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như bị giết, bị bắt giam nhốt, đánh đập, những nạn về nước lụt, hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn, phá giới, danh xấu, ác đạo.
Với cha mẹ, sư trưởng tôi rất kính mến, với kẻ thù nghịch tôi khởi lòng từ. Tôi thường tu tập sáu chánh niệm, môn Không tam muội, mười hai nhơn duyên, quán sanh diệt vô thường, sổ tức, Thiên hạnh, Phạm hạnh, Thánh hạnh, Kim cang tam muội, Thủ Lăng Nghiêm định.
Nơi không có ngôi Tam Bảo, nguyện tôi được tâm tịch tịnh. Nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện không hư mất tâm Bồ đề Vô thượng. Chẳng sanh lòng tri túc đối với Thanh văn, Bích chi Phật. Chỗ không ngôi Tam Bảo tôi thường xuất gia trong hàng ngoại đạo để phá tà kiến của họ, được pháp tự tại, được tâm tự tại, nơi pháp hữu vi thấy rõ sự lỗi lầm. Nguyện tôi sợ sệt đạo quả Nhị thừa như người tiếc thân sợ chết.
Nguyện tôi vì chúng sanh nên thích ở trong ba ác đạo như chúng sanh thích ở cõi trời Đao Lợi. Nguyện tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà chịu khổ địa ngục trong vô lượng kiếp chẳng sanh lòng hối hận. Nguyện tôi thấy người khác được lợi ích chẳng sanh lòng ganh ghét, thường có lòng tùy hỷ như chính mình được.
Nếu gặp ngôi Tam Bảo, nguyện tôi sẽ đem y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, đèn sáng, hoa hương, kỹ nhạc, phan lọng, bảy báu cúng dường. Nếu thọ giới pháp của Phật nguyện tôi giữ gìn bền chắc trọn chẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe khổ hạnh khó làm của Bồ tát, trong lòng vui mừng chẳng hối hận.
Tự biết những việc đời trước trọn chẳng gây nghiệp tham sân si. Chẳng vì quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhơn. Đối với sự vui hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.
Nầy Thiện nam tử! Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là Bồ tát trọn chẳng thối thất tâm Bồ đề, cũng gọi là thí chủ, có thể thấy đức Như Lai, thấy rõ Phật tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏi sanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn ba la mật. [...]
[...] Nầy Thiện nam tử! Định tướng gọi là Không tam muội. Huệ tướng gọi là Vô nguyện tam muội. Xả tướng gọi là Vô tướng tam muội. Nầy Thiện nam tử! Nếu có Đại Bồ tát biết rành thời gian định, thời gian huệ, thời gian xả và biết phi thời, đây gọi là Đại Bồ tát thực hành đạo Bồ đề.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ tát biết thời cùng phi thời?
Nầy Thiện nam tử! Đại Bồ tát vì hưởng thọ sự vui mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì thuyết pháp mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì tinh tấn mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì hiểu nghĩa vấn đáp giỏi mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì gần bạn ác mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì bố thí nhiều mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì có công đức lành thế gian mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì được người giàu sang cung kính mà sanh lòng kiêu mạn, nên biết những lúc như vậy chẳng nên tu tập trí huệ, mà phải tu tập chánh định, đây gọi là Bồ tát biết thời cùng phi thời.
Nếu có Bồ tát tinh tấn tu hành chưa được quả Niết Bàn an lạc, vì chẳng được mà sanh lòng hối hận, vì độn căn nên chẳng điều phục được ngũ căn, vì thế lực phiền não thạnh, vì tự nghi giới luật có kém tổn, nên biết rằng lúc như vậy chẳng nên tu chánh định, mà phải tu tập trí huệ, đây gọi là Bồ tát biết thời và phi thời.
Nếu có Bồ tát hai pháp định - huệ chẳng bình đẳng, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, lúc định - huệ bình đẳng thời nên tu hạnh xả, đây gọi là Bồ tát biết thời và phi thời.
Nếu có Bồ tát lúc tu tập định - huệ nếu có phiền não khởi lên, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, mà phải đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm Thiên, niệm thí xả, đây gọi là tu xả.
Nếu có Bồ tát tu tập 3 pháp tướng như vậy, do nhơn duyên nầy
được vô tướng Niết Bàn. [...]
[...] - Bạch Thế Tôn! Như đức Phật nói rốt ráo là Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn nầy làm thế nào chứng được?
- Nầy Thiện nam tử! Hoặc Bồ tát hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di có thể tu tập mười quán tưởng, thời người nầy có thể được Niết bàn. Những gì là mười?
Một là vô thường tưởng,
hai là khổ tưởng,
ba là vô ngã tưởng,
bốn là yểm ly thực tưởng,
năm là nhứt thiết thế gian bất khả lạc tưởng,
sáu là tử tưởng,
bảy là đa tội quá tưởng,
tám là lý tưởng,
chín là diệt tưởng,
mười là vô ái tưởng.
Người nào tu tập mười thứ quán tưởng như vậy thời rốt ráo quyết định được Niết Bàn. Chẳng do nơi người, tự mình có thể phân biệt thiện, bất thiện v.v… Đây gọi là thật xứng nghĩa Tỳ kheo, nhẫn đến xứng nghĩa Ưu bà di...
Sư Tử Hống Bồ tát liền quỳ chắp tay nói kệ tán thán Phật:
Như Lai có vô lượng công đức,
Tôi chẳng thể trình bày đủ hết,
Nay vì chúng sanh nói một phần,
Xin Phật xót thương cho tôi nói.
Chúng sanh đi trong tối vô minh,
Chịu đủ vô biên trăm thứ khổ,
Phật có thể khiến họ xa lìa,
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Chúng sanh đi trên dây sanh tử,
Phóng dật mê hoang không an vui,
Phật có thể ban cho an vui,
Do đây dứt hẳn dây sanh tử.
Vì Phật cho chúng sanh an vui,
Nên chẳng tham đắm vui của mình,
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh,
Nên trong đời đều cúng dường Phật.
Thấy người chịu khổ thân run rẩy,
Nên ở địa ngục chẳng biết đau,
Phật vì chúng sanh chịu khổ nhiều,
Nên là vô lượng không ai hơn.
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh,
Đầy đủ sáu môn ba la mật,
Ở trong gió tà tâm chẳng động,
Nên hơn được Đại sĩ trong đời.
Chúng sanh thường muốn được an vui,
Mà chẳng biết tu nhơn an vui,
Phật có thể dạy bảo tu tập,
Dường như cha lành thương con một.
Phật thấy chúng sanh khổ phiền não,
Lòng khổ như mẹ lo con bịnh,
Thường nghĩ những phương tiện lìa bịnh,
Nên thân Phật hệ thuộc nơi người.
Tất cả chúng sanh làm điều khổ,
Lòng họ điên đảo cho là vui,
Phật diễn nói khổ vui chơn thật,
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Đời đều ở trong vỏ vô minh,
Không có mỏ trí mổ lủng được,
Mỏ trí của Phật mổ lủng được,
Nên gọi Phật là Mẹ lớn nhứt.
Chẳng bị nhiếp trì trong ba đời,
Không có danh tự và hiệu giả,
Hiểu biết nghĩa sâu của Niết Bàn,
Nên gọi Phật là bậc Đại Giác.
Ba cõi xoay chuyển nhận chúng sanh,
Vô minh mù lòa chẳng biết ra,
Phật tự độ mình, độ được người,
Nên gọi Phật là đại Thuyền sư.
Biết rõ được tất cả nhơn quả,
Cũng lại thông đạt đạo tịch diệt,
Thường ban pháp dược cho chúng sanh,
Nên đời gọi Phật là Y Vương.
Ngoại đạo tà kiến nói khổ hạnh,
Nhơn hạnh nầy được vui vô thượng,
Đức Phật diễn nói hạnh chơn lạc,
Làm cho chúng sanh hưởng an vui,
Như Lai Thế Tôn phá đạo tà,
Chỉ dạy chúng sanh đường chơn chánh,
Ai đi đường nầy được an vui,
Nên đời gọi Phật là Đạo Sư.
Chẳng phải mình và người làm ra,
Chẳng phải chung làm vô nhơn làm,
Đức Phật giảng nói những sự khổ,
Đúng thật không như các ngoại đạo.
Thành tựu đầy đủ giới định huệ,
Cũng đem pháp nầy dạy chúng sanh,
Đem pháp bố thí không lẫn tiếc,
Phật hiệu là Đấng Vô Duyên Từ.
Không tạo tác cũng không nhơn duyên,
Chứng được báo không nhơn không quả,
Do đây tất cả bậc trí giả,
Khen nói đức Phật chẳng cầu báo.
Thường cùng thế gian hành phóng dật,
Mà thân chẳng làm phóng dật hạnh,
Nên gọi Phật là Bất Tư Nghì,
Tám pháp thế gian chẳng nhiễm ô.
Như Lai Thế Tôn không thân thù,
Nên tâm của Phật thường bình đẳng,
Tôi Sư Tử Hống, tán thán Phật,
Rống như vô lượng sư tử rống.
[...] Lúc đó đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng:
Chớ quá khóc lóc như trẻ nít. Đại chúng phải cố dằn chớ để tâm mê loạn!
Đại chúng ở trong biển lớn sanh tử phải siêng năng tu hành cho tâm được thanh tịnh, chớ để mất chánh niệm chánh huệ, phải gấp cầu chánh trí mau thoát khỏi các cõi.
Nếu thọ thân trong ba cõi thời bị khổ luân hồi không ngằn mé, vô minh là ông chủ, ân ái là ma vương, sai khiến thân tâm như tôi tớ, duyên theo trần cảnh tạo nghiệp sanh tử, tham sân si niệm niệm làm hại, từ vô lượng kiếp đến nay thường thọ lấy sự khổ não. Đâu có người trí mà chẳng đi ngược lại nguồn sanh tử nầy!
Đại chúng nên biết rằng từ nhiều kiếp đến nay Ta đã nhập Đại Niết Bàn, không còn có ấm giới nhập, mà đã dứt hẳn các cõi, thường ở trong bửu tạng kim cang thường lạc ngã tịnh.
Hôm nay Ta ở nơi đây thị hiện sức phương tiện bất tư nghì mà nhập Đại Niết Bàn đồng với pháp thế gian. Đó là Ta muốn cho chúng sanh rõ biết thân như chớp nháng, dòng sanh tử chảy quá mau, những hành pháp luân chuyển vô thường lẽ phải như vậy.
Như Lai nhập Đại Niết Bàn là rất sâu, rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật Bồ tát, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác biết được...